
BRS Việt Nam là doanh nghiệp tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào lĩnh vực tài chính, với định hướng phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực Fintech (công nghệ tài chính). Chúng tôi cam kết mang đến các giải pháp số toàn diện nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành tài chính – ngân hàng, đồng thời mở rộng khả năng tiếp cận tài chính cho cộng đồng.
Với đội ngũ nhân sự giàu kinh nghiệm và tầm nhìn đổi mới sáng tạo, BRS tập trung xây dựng hệ sinh thái các sản phẩm và dịch vụ công nghệ tài chính, trong đó nổi bật là nền tảng cho vay ngang hàng (P2P Lending) – kết nối trực tiếp giữa nhà đầu tư và người đi vay một cách minh bạch, hiệu quả và an toàn.
Các lĩnh vực hoạt động chính của BRS bao gồm:
- Phát triển nền tảng P2P Lending hỗ trợ tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp nhỏ, mở rộng cơ hội tiếp cận nguồn vốn một cách thuận tiện.
- Tích hợp giải pháp thanh toán điện tử, ví số và công nghệ định danh (eKYC) nhằm nâng cao trải nghiệm người dùng.
- Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data) trong phân tích tín dụng, quản trị rủi ro và cá nhân hoá dịch vụ tài chính.
BRS đồng hành cùng các tổ chức tài chính, doanh nghiệp và cộng đồng người dùng trong việc định hình một tương lai tài chính số hiện đại, minh bạch và bền vững tại Việt Nam.
Xem: Nghị Định 94 năm 2025
Khung pháp lý về fintech (Financial Technology) tại Việt Nam
Trong những năm gần đây, công nghệ tài chính (Financial Technology – fintech) đã trở thành một lĩnh vực phát triển mạnh mẽ. Fintech là sự kết hợp, ứng dụng các công nghệ kỹ thuật hiện đại vào việc cung cấp và sử dụng các dịch vụ tài chính đang dần thay đổi cách thức giao dịch và quản lý tài chính của người dân, doanh nghiệp, cũng như các tổ chức tài chính truyền thống. Vậy hiện nay, khung pháp lý về fintech (Financial Technology) tại Việt Nam được quy định như thế nào? Sau đây, Luật Việt An sẽ phân tích nội dung này.
Xu hướng phát triển Fintech tại Việt Nam
Trong những năm gần đây, thị trường Fintech tại Việt Nam đã có những bước phát triển rất mạnh mẽ cả về mặt số lượng, sự đa dạng trong sản phẩm, dịch vụ và thu hút vốn đầu tư. Doanh thu của thị trường này đạt 4,4 tỉ USD giá trị giao dịch vào năm 2017 và đạt khoảng 7,8 tỉ USD vào năm 2020, tương đương với mức tăng 77% trong vòng 03 năm. Số lượng các công ty Fintech tại Việt Nam cũng tăng lên nhanh chóng, từ khoảng 40 công ty vào cuối năm 2013 lên đến khoảng 176 công ty ở thời điểm cuối năm 2022 và ước tính sẽ ngày càng tăng trong các năm sắp tới.
Các hoạt động chính của Fintech
Thị trường Fintech Việt Nam theo nghĩa rộng, bao gồm hoạt động Fintech ở các nhóm chính:
Thanh toán điện tử
Fintech giúp người dùng thực hiện thanh toán trực tuyến nhanh chóng và tiện lợi thông qua các ví điện tử, chuyển khoản ngân hàng trực tuyến, các dịch vụ như PayPal, Venmo, hoặc các ứng dụng thanh toán như Momo, ZaloPay tại Việt Nam.
Ngân hàng số
Tại Việt Nam, mô hình ngân hàng số vẫn còn trong giai đoạn phát triển ban đầu. Các ngân hàng số cung cấp các dịch vụ ngân hàng hoàn toàn trực tuyến như mở tài khoản, gửi tiền, vay tiền và quản lý tài khoản, thông qua các ứng dụng di động và nền tảng web.
Trong đó, các dịch vụ tài chính trực tuyến, ví điện tử, và nền tảng đầu tư cũng áp dụng eKYC để xác minh danh tính người dùng mà không yêu cầu họ phải trực tiếp đến chi nhánh.
Huy động vốn cộng đồng
Mô hình cho vay ngang hàng (P2P Lending) cũng đã phát triển ở Việt Nam trong những năm trở lại đây, với sự xuất hiện của các công ty hoạt động giống mô hình này từ năm 2016 với trang huydong.com. Cho vay ngang hàng là mô hình cho vay hiện đại trên nền tảng công nghệ số, tại đây người đi vay và người cho vay (nhà đầu tư) sẽ được kết nối trực tiếp với nhau mà không cần phải thông qua các tổ chức tín dụng hay ngân hàng truyền thống nào.
- Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng là môi trường thử nghiệm việc ứng dụng công nghệ và triển khai sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới trong lĩnh vực ngân hàng có giới hạn về phạm vi, không gian, thời gian thực hiện; tổ chức tham gia cơ chế thử nghiệm có kiểm soát phải đáp ứng điều kiện, tiêu chí xét duyệt tham gia và chịu sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Chính phủ quy định chi tiết Điều này”.
- Cấp tín dụng trên nền tảng công nghệ.
- Chấm điểm tín dụng.
- Chia sẻ dữ liệu qua giao diện lập trình ứng dụng (API).
- Cho vay ngang hàng (P2P Lending).
- Ứng dụng công nghệ chuỗi khối, sổ cái phân tán (Blockchain Technology, DLT) trong hoạt động ngân hàng.
- Ứng dụng các công nghệ khác trong hoạt động nghiệp vụ ngân hàng, triển khai mô hình hợp tác kinh doanh đổi mới sáng tạo phù hợp với mục tiêu của Cơ chế thử nghiệm.
- Là pháp nhân được thành lập và hoạt động hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam; không đang trong quá trình chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi, giải thể, phá sản theo quyết định đã được ban hành; không thuộc nhóm tổ chức tín dụng đang được kiểm soát đặc biệt theo Luật Các tổ chức tín dụng.
- Người đại diện theo pháp luật, Tổng Giám đốc (Giám đốc) của tổ chức đề nghị tham gia Cơ chế thử nghiệm phải có trình độ chuyên môn hoặc kinh nghiệm thực tế trong quản trị kinh doanh hoặc lĩnh vực phụ trách.
- Đội ngũ cán bộ thực hiện giải pháp Fintech thử nghiệm có trình độ chuyên môn về lĩnh vực đảm nhiệm.
